Trao đổi về xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia nước thải nuôi trồng thủy sản.

       1. Nước thải nuôi trồng thủy sản

       Nước thải nuôi trồng thuỷ sản (nuôi tôm, cá...) là nguồn nước thải sau khi thu hoạch các sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng canh tác thải ra nguồn tiếp nhận. Nước thải nuôi trồng thuỷ sản cũng chứa các thành phần các chất hữu cơ (BOD5, COD), các chất dinh dưỡng (phospho, nitơ), chất rắn lơ lững (TSS) và nhóm các vi sinh coliforms... có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh cần phải được xử lý.

       Nước thải nuôi trồng thuỷ sản đối với một số mô hình nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp với các thành phần độc hại có thể gây ô nhiễm môi trường (khu vực đồng bằng sông Cửu Long) cho thấy như sau: Nước thải nuôi tôm công nghiệp có hàm lượng các chất hữu cơ (BOD5 12-35mg/l,  COD 20-50mg/l), phospho 0,24-0,45 mg/l (P-PO43-), ammoniac (0,5-1mg/l), chất rắn lơ lững(12-70mg/l), coliforms(2,5.102 - 3.104 MNP/100ml). Nước thải nuôi cá Trê lai có thành phần BOD5 56mg/l, COD 118mg/l, tổng N 11,50 mg/l, tổng P 5,02 mg/l. Nước thải nuôi cá Tra có thành phần BOD5 50mg/l, COD 112mg/l, tổng N 4,81 mg/l, tổng P 2,17 mg/l. Nguồn nước nuôi trồng, canh tác thuỷ sản trong một vụ nuôi (nuôi tôm thường 02 vụ/năm, nuôi cá 01 vụ/năm) có thể đạt đến 15.000 - 25.000 m3/ha tùy thuộc vào quy trình nuôi công nghệ canh tác, nuôi trồng các loại thủy sản và lượng nước thải nuôi trồng thuỷ sản sau thu hoach sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng khoảng 40 - 60% lượng nước canh tác nuôi trồng... Thành phần nguồn nước thải này có chứa nhiều thành phần độc hại và các nguồn dịch bệnh, do đó phải được xử lý triệt để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trước lúc thải ra nguồn tiếp nhận.

Giảm ô nhiễm môi trường vùng nuôi thủy sản. Ảnh ST

       Ngoài ra Bùn thải trong quá trình trong nuôi trồng thuỷ sản (nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm thâm canh, nuôi cá Tra công nghiệp, nuôi cá Trê...) chứa các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các hóa chất và thuốc kháng sinh, các chất lắng đọng phù sa, với chiều dày từ 01 - 0,3m... thải ra trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi tác động xấu đến môi trường xung quanh và ảnh hưởng đến chất lượng thủy sản nuôi trồng. Bùn thải nuôi tôm công nghiệp có chứa khoảng 29,5%, Si: 27.842mg/kg, Ca: 13.256 mg/kg, K: 5.642mg/kg, Fe: 11.210 mg/kg, H2S: 8,3mg/kg, N-NH3: 36,1mg/kg, N-NO3: 0,3mg/kg, N-NO2: 0,1mg/kg, PO4: 1,8mg/kg;  Bùn thải nuôi cá Tra với: pH 4,37-5,39,  TOC 1,56 - 1,89%, tổng N 0,131 - 0,186%, tổng P 0,124 - 0,181%... là nguồn gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng cần phải được xử lý triệt để nhằm phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản.

       2. Thực trạng quản lý nước thải nuôi trồng thuỷ sản

       Nuôi trồng thuỷ sản được xem như là một hệ thống canh tác nông nghiệp, Bộ NN&PTNT có quy chuẩn kỹ thuật quản lý theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT ngày 29/7/2014 về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi tôm nước lợ - Điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm: Đối với chất lượng nước cấp vào ao nuôi và nước ao nuôi tôm Sú và tôm Chân trắng (ô xy hoà tan (DO) = 3,5mg/l; pH từ 7-9; Độ mặn = 5-35‰; Độ trong = 20-50cm; NH3 <0,3mg/l; H2S < 0,05mg/l; Nhiệt độ 18 - 330C. Đối với chất lượng nước thải từ ao xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường bên ngoài (pH 5,5-9; BOD5(200C) = 50mg/l; COD =150mg/l; Chất rắn lơ lững =100mg/l và Coliform =5.000MPN/100ml. QCVN 02-20:2014/BNNPTNT ngày 29/7/2014 về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá Tra trong ao-Điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm: Đối với chất lượng nước cấp vào ao nuôi cá Tra (ô xy hoà tan (DO) = 2,0mg/l; pH từ 7-9; Độ kiềm = 60-180mg CaCO3/L;; NH3 <0,3mg/l; H2S< 0,05mg/l; Nhiệt độ 25-320C. Đối với chất lượng nước thải từ ao nuôi trước khi thải ra môi trường bên ngoài (pH 5,5-9; BOD5(200C)= 50mg/l; COD =150mg/l; Chất rắn lơ lững =100mg/l và Coliform =5.000MPN/100ml... đã cho thấy sự phân biệt rõ nét giữa nước nuôi trồng thuỷ sản (chất lượng nước hệ canh tác nuôi trồng) và nước thải nuôi trồng thuỷ sản thải ra môi trường tiếp nhận (các thông số quan trắc, giám sát còn rất hạn chế đối với chất lượng nước thải nuôi trồng thuỷ sản...).

       Tuy nhiên, hiện nay nước thải nuôi trồng thuỷ sản được các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường (trung ương và địa phương) áp dụng theo quy chuẩn nước thải công nghiệp QCVN 40:2011/BTNMT (là quy chuẩn áp dụng cho các cơ sở sản xuất công nghiệp...) và các bất cập đã diễn ra trong thực tế đời sống, đang đòi hỏi phải có cách tiếp cận có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn để áp dụng;

       Vì QCVN 40:2011/BTNMT được xây dựng và ban hành để áp dụng cho nước thải của các nhà máy sản xuất công nghiệp nên có đến 33 thông số ô nhiễm cần kiểm soát (Nhiệt độ; Màu; pH; BOD5(200C); COD; Chất răn lơ lững; Asen; Thuỷ ngân; Chì; Cadimi; Crom (VI); Crom (III); Đồng; Kẽm; Niken; Mangan; Sắt; Tổng xianua; Tổng phenol; Tổng dầu mỡ khoáng; Sunfua; Amoni (tính theo N); Tổng nitơ; Tổng phốt pho (tính theo P); Clorua (không áp dụng khi xả vào nguồn nước mặn, nước lợ); Clo dư; Tổng hoá chất bảo vệ thực vật Cll hữu cơ; Tổng hoá chất bảo vệ thực vật phốt pho hữu cơ; Tổng PCB; Coliform; Tổng hoạt độ phóng xạ á; Tổng hoạt độ phóng xạ ß)... là gồm quá nhiều thông số và quá phức tạp khi áp dụng đối với nước thải nuôi trồng thuỷ sản, nhưng lại không tiếp cận với bản chất ô nhiễm từ thực tế nước thải nuôi trồng thuỷ sản (đặc trưng chủ yếu là các chất hữu cơ, các chất dinh dưỡng, chất rắn lơ lững và các vi sinh gây bệnh) khi áp dụng quy chuẩn xả nước thải cho ngành nuôi trồng thuỷ sản.

       Việc sử dụng các nhóm thông số kim loại nặng (Asen; Thuỷ ngân; Chì; Cadimi; Crom (VI); Crom (III); Đồng; Kẽm; Niken; Mangan; Sắt), nhóm thông số hoá chất (Tổng xianua; Tổng phenol; Tổng dầu mỡ khoáng; Màu; Tổng hoá chất bảo vệ thực vật Cll hữu cơ; Tổng hoá chất bảo vệ thực vật phốt pho hữu cơ; Tổng PCB...) và nhóm thông số phóng xạ (Tổng hoạt độ phóng xạ á; Tổng hoạt độ phóng xạ ß)... từ QCVN 40:2011/BTNMT để áp dụng cho nước thải nuôi trồng thuỷ sản cho thấy, vừa không đặc trưng cho nguồn nước thải của ngành nuôi trồng thuỷ sản, vừa gây khó khăn trong tổ chức thực hiện các thông số này trong quan trắc môi trường là vô cùng tốn kém và lãng phí chi phí phân tích mẫu, nhưng lại không phục vụ thiết thực gì cho hoạt động sản xuất canh tác nuôi trồng thuỷ sản của chủ doanh nghiệp và xã hội...

       Điều đáng quan tâm hiện nay là các cơ quan quản lý môi trường địa phương lại chưa quản lý giám sát chặt chẽ được nguồn nước nuôi trồng thuỷ sản trong hệ canh tác (theo QCVN 38:2011/BTNMT về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh) và nước thải (quản lý theo QCVN 40:2011/BTNMT) ra nguồn tiếp nhận, chưa có các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết cho các doanh nghiệp thực hiện và ý thức tự giác thực hiện chưa cao... Do đó việc thống kê phân loại các loại nước thải nuôi trồng thuỷ sản (nuôi thuỷ sản bán thâm canh, thâm canh và công nghiệp...) và nước nuôi thuỷ sản của hệ thống canh tác, chưa được tiến hành quản lý chất lượng và lưu lượng nguồn thải vào nguồn tiếp nhận chưa chặt chẽ, dẫn đến việc thu phí nước thải chưa đáp ứng theo quy định của nhà nước, gây thất thu cho ngân sách trong nhiều năm vẫn chưa được giải quyết... Việc ban hành thu các loại phí, trong đó có phí nước thải nuôi trồng thuỷ sản phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh/thành phố ở địa phương thong qua, do đó cần cung cấp đầy đủ các cơ sở khoa học và thực tiễn về nước thải nuôi trồng thuỷ sản, để ban hành thu phí nước thải từ nuôi trồng thuỷ sản đảm bảo tính khả thi và hiệu quả xã hội...

       3. Một số đề xuất

       Trong những năm gần đây lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản đã có bước phát triển nhanh chóng, trở thành ngành kinh tế động lực quan trọng phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương, thu hút vốn đầu tư tập trung, trọng điểm trong và ngoài nước cho phát triển nuôi trồng thủy sản, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng địa phương, nâng cao trình độ công nghệ và hiệu quả của sản xuất, nâng cao đời sống cho người lao động, mở rộng thị trường cho tiêu dùng và xuất khẩu trong quá trình hội nhập quốc tế... Tuy nhiên hệ thống canh tác, nuôi trồng thuỷ sản (nuôi bán thâm canh, thâm canh và công nghiệp...), đang đòi hỏi phải hoàn thiện công cụ quản lý môi trường hữu hiệu có cơ sở khoa học và thực tiễn, để phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản trong tương lai.

       Việc sử dụng QCVN 40:2011/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp, làm quy chuẩn xả thải của ngành nuôi trông thuỷ sản thời gian qua, thực tế đã cho thấy chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn để áp dụng, gây nhiều hạn chế, lãng phí, khó khăn cho doanh nghiệp và xã hội, không thu được phí nước thải... Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài Chính... cần có sự phối hợp chặt chẽ để nghiên cứu chuyên ngành về nước thải, bùn thải và giải pháp xử lý, thu phí thích hợp đối với ngành nuôi trồng thuỷ sản...

       Cần ban hành kịp thời  Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải nuôi trồng thuỷ sản (QCVN của Bộ Tài nguyên và Môi trường), để thay thế quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp, đang áp dụng hiện nay (gây nhiều tranh cãi, khó khăn) cho ngành nuôi trồng thuỷ sản, để đảm bảo tính khả thi khoa học và thực tiễn... Bổ sung nghiên cứu và ban hành hướng dẫn kỹ thuật về xử lý nước thải, bùn thải trong canh tác nuôi trồng thuỷ sản (đặc biệt đối với nuôi bán thâm canh, thâm canh và công nghiệp...), đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định của Luật bảo vệ môi trường.

Phạm Đình Đôn