Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao sự gắn kết doanh nghiệp với đào tạo, đánh giá người học tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

       1. Đặt vấn đề
       Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động… Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Chủ trương này thể hiện sự nhận thức đúng đắn, kịp thời và nhất quán theo xu thế hội nhập. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp là các trường đại học, trường cao đẳng, trường dạy nghề là một hiện tượng nổi bật ở Việt Nam, trong đó có tỉnh Cà Mau. Sự gắn kết đặc biệt này ngày càng phổ biến khi mà diễn biến kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra rất nhanh và mạnh mẽ trên nhiều phương diện trong đời sống xã hội.
       Theo số liệu thống kê của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), tính đến tháng 12/2024 cả nước có 2.464 cơ sở dạy nghề, trong đó có 1.520 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (416 trường cao đẳng, 376 trường trung cấp, 728 trung tâm giáo dục nghề nghiệp) và 944 cơ sở khác có đăng ký. Trong năm 2023, tỷ lệ học viên giáo dục nghề nghiệp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt 90%, thu nhập dao động 10-15 triệu đồng/tháng... Với cuộc sống hiện đại, xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề đặt ra là chất lượng đào tạo và đào tạo theo nhu cầu xã hội cần. Các cơ sở đào tạo phải đào tạo như thế nào? Doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo đến đâu hay chỉ cấp học bổng hay chỉ cho sinh viên thực tập như hiện nay? Các cơ sở đào tạo có hiểu doanh nghiệp, có quan tâm đến việc doanh nghiệp đánh giá sản phẩm của mình chưa, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo hiện nay? Ngay cả trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của UBND tỉnh Cà Mau năm 2025 cũng đề ra mục tiêu là phải thực hiện tốt công tác phối hợp đào tạo, đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm giữa cơ sở giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp với chính quyền địa phương và doanh nghiệp để đảm bảo lao động sau khi được đào tạo sẽ tìm được việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo. Phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 60%.
       Trong xu thế này, các cơ sở đào tạo cả nước nói chung và các cơ sở đào tạo ở Cà Mau nói riêng phải linh hoạt trong việc thay đổi chương trình đào tạo, mục tiêu đào tạo sao cho phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nhà tuyển dụng nói riêng. Để tồn tại và phát triển trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt, các cơ sở đào tạo không chỉ có sứ mệnh đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn phải có chiến lược đào tạo đón đầu xu thế phát triển. Để thực hiện được nhiệm vụ này, không thể thiếu sự liên kết của cộng đồng doanh nghiệp và sự định hướng của các cơ quan chức năng của địa phương.
       2. Mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và sinh viên
       Ý tưởng liên kết, hợp tác giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp được đề xướng bởi nhà triết học Đức Willhelm Humboldt. Theo ông, cơ sở giáo dục ngoài chức năng đào tạo phải có chức năng nghiên cứu và hợp tác với các ngành công nghiệp. Hợp tác Nhà trường - doanh nghiệp được hiểu như sự tương tác, giao dịch giữa cơ sở giáo dục với các doanh nghiệp để mang lại lợi ích cho các bên. Hợp tác giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp nhằm mang lại lợi ích cho các bên, bao gồm: hợp tác trong nghiên cứu và phát triển (R&D), trao đổi nhân sự (học giả, sinh viên và chuyên gia), thương mại hóa kết quả R&D, xây dựng và phổ biến chương trình đào tạo, học tập suốt đời, phát triển doanh nghiệp và quản trị.
Các mức độ hợp tác phổ biến là: tiếp nhận sinh viên đến thực tập, tham quan thực tế, hỗ trợ chi phí và thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập. Các mức cao hơn là: trao đổi chuyên gia, chia sẻ tri thức, công nghệ; đầu tư cho nghiên cứu, triển khai để cùng sở hữu và chuyển giao công nghệ; cùng đầu tư phát triển doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội. Do vậy, các hợp tác này còn được coi là sự hợp tác giữa hai mảng học thuật và sản xuất kinh doanh. Khi công nghệ ngày càng đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế thì hợp tác giữa các trường và doanh nghiệp ngày càng trở thành xu hướng mới. Ngày nay, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và sinh viên có mối liên hệ về mặt lợi ích khá chặt chẽ. Mỗi bên sẽ có được những lợi ích của riêng mình thông qua mối quan hệ hợp tác giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

Mối quan hệ giữa nhà trường, doanh nghiệp và sinh viên (Nguồn: Lê Trung Kiên, 2008)

       Sự cần thiết của việc hợp tác giữa cơ sở đào tạo doanh nghiệp trong bối cảnh hiện được thể hiện trên những khía cạnh như sau: 
       Thứ nhất, chất lượng đào tạo tốt là mong muốn của toàn xã hội, của doanh nghiệp, của cơ sở đào tạo và của cả sinh viên (người học). Chất lượng đào tạo chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng ảnh hưởng do con người quyết định là phần lớn. 
Thứ hai, con người là yếu tố quan trọng, nhân sự là vấn đề sống còn của giới doanh nghiệp, tổ chức.
Thứ ba, sinh viên vốn được nghĩ là sản phẩm đào tạo của các cơ sở đào tạo. Sinh viên mong muốn tốt nghiệp sẽ có việc làm ngay tại các doanh nghiệp, tổ chức có uy tín, danh tiếng và chuyên nghiệp.
Thứ tư, doanh nghiệp, tổ chức có quyền đánh giá chất lượng sinh viên và tiếp đến là quy cho chương trình đào tạo và chất lượng đào tạo. Nhiều doanh nghiệp cho rằng sinh viên tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp, tổ chức cho rằng, phải đào tạo lại sinh viên bằng những chương trình phù hợp với doanh nghiệp của mình.
       Thứ năm, các cơ sở có đào tạo mong muốn hoàn thiện chương trình đào tạo đáp ứng được nhu cầu xã hội và của doanh nghiệp. Sản phẩm đào tạo là các sinh viên, họ có thái độ tốt trong công việc, họ tự tin về kiến thức, năng lực và sẵn sàng làm việc chuyên nghiệp tại các doanh nghiệp, phục vụ mọi nhu cầu về du lịch của xã hội.
Vấn đề đặt ra là các bên: cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và sinh viên đều là các bên liên quan có trách nhiệm chung với xã hội và bản thân mỗi bên cần hợp tác, hỗ trợ để đạt được mục tiêu riêng của mình: doanh nghiệp có lao động tốt, sẵn sàng làm việc tại cơ sở; cơ sở đào tạo muốn sinh viên tốt nghiệp ra trường có chất lượng tốt; sinh viên muốn tốt nghiệp là có việc làm ngay và phù hợp với ngành nghề đào tạo, có thu nhập xứng đáng với khả năng của mình.

       3. Thực trạng tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau

       Số liệu trình bày được thu thập từ một cuộc khảo sát đối với 100 giảng viên và cán bộ quản lý (GV và CBQL) giáo dục thuộc các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau như trường Đại học Bình Dương phân hiệu Cà Mau, trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau, trường Cao đẳng Y tế Cà Mau, trường Cao đẳng Nghề Việt Nam - Hàn Quốc.

Bảng 1. Đánh giá của GV và CBQL về chương trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo

Nguồn: Số liệu điều tra, 2023

       Kết quả Bảng 1 cho thấy, đối với nhân tố chương trình đào tạo, GV và CBQL đánh giá chưa cao đối với các biến quan sát. Tất cả các biến quan sát đều được GV và CBQL đánh giá từ mức trung bình đến mức hài lòng, có nghĩa là chương trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo của tỉnh phần lớn đáp ứng được mục tiêu đào tạo; với biến quan sát có giá trị trung bình thấp nhất là Các học phần đào tạo kỹ năng mềm như giao tiếp, nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo (3,06) và giá trị trung bình cao nhất là biến quan sát Mục tiêu đào tạo các ngành học rõ ràng (3,71). Từ kết quả này các lãnh đạo của các cơ sở đào tạo cần lưu ý để kịp thời sửa đổi, bổ sung các kỹ năng mềm vào chương trình đào tạo của mình để phù hợp nhu cầu xã hội cần.

Bảng 2. Đánh giá của GV và CBQL về đội ngũ GV tại các cơ sở đào tạo

Nguồn: Số liệu điều tra, 2023

       Kết quả Bảng 2 cho thấy, đối với nhân tố đội ngũ GV tại các cơ sở đào tạo thì được GV và CBQL đánh giá chưa cao đối với các biến quan sát của thang đo này. Trong đó, biến quan sát Đội ngũ GV cơ hữu được đánh giá có giá trị trung bình là cao nhất (3,52); biến quan sát Được bồi dưỡng chuyên môn hàng năm là có giá trị trung bình thấp nhất (2,67). Từ kết quả này các lãnh đạo của các cơ sở đào tạo cũng cần lưu ý về công tác bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ GV cơ hữu. Mỗi năm cần có kế hoạch cụ thể cho đội ngũ GV cơ hữu tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ với các cơ sở đào tạo ngoài tỉnh hay các lớp tập huấn đúng môn chuyên ngành giảng dạy. Để đội ngũ GV cơ hữu có cơ hội cập nhật thêm những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm phục vụ cho công tác giảng dạy ngày càng tốt hơn, nâng cao chất lượng giảng dạy tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh.

Bảng 3. Đánh giá của GV và CBQL về một số vấn đề liên quan khác tại các cơ sở đào tạo

Nguồn: Số liệu điều tra, 2023

       Kết quả Bảng 3 trình bày một số vấn đề liên quan đến các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau, thống kê mô tả được thể hiện qua một số tiêu chí sau:
       - Học phần nào nên loại bỏ khỏi chương trình đào tạo (CTĐT) thì có 83 GV và CBQL không có ý kiến về vấn đề này, chiếm tỷ lệ tương ứng là 83%; còn lại 17% cho rằng nên bỏ các học phần về Chính trị; GDQPAN; học phần Kỹ năng làm việc nhóm; Tổ chức quản lý doanh nghiệp; Kế toán đại cương; Công nghệ thông tin; Nghiên cứu khoa học; Quản lý dự án đầu tư; Tin học đại cương; Xác suất thống kê; Giáo dục thể chất; Tin học ngoại ngữ căn bản.... Còn lý do không loại bỏ khỏi CTĐT vì có liên quan đến chuẩn đầu ra cho HS, SV là bắt buộc.
       - Học phần nào nên thêm vào CTĐT thì có 72 GV và CBQL không có ý kiến về vấn đề này, chiếm tỷ lệ tương ứng là 72%; còn lại 23% cho rằng nên thêm vào CTĐT các học phần có nội dung kỹ năng mà doanh nghiệp cần; các học phần mang tính thực tế cho từng chuyên ngành; các học phần về Kỹ năng giao tiếp; các học phần về kỹ năng mềm phù hợp với từng chuyên ngành như: Khai báo thuế; Kỹ năng làm việc; Phương pháp nghiên cứu khoa học; Lắp đặt hệ thống mạng; môn chuyên sâu về Điều dưỡng, Dược và Hộ sinh; Tâm lý học; thực hành, thực tập; thực tập sản xuất; Kỹ năng làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp; Kỹ năng cuộc sống.
       - Học phần nào có thời lượng quá ngắn không đủ để đạt mục tiêu của học phần thì có 83 GV và CBQL không có ý kiến về vấn đề này, chiếm tỷ lệ tương ứng là 83%; còn lại 17% cho rằng các học phần sau đây là không đủ thời gian để đạt mục tiêu của học phần như học phần Anh văn chuyên ngành (30 tiết là quá ngắn); Giáo dục thể chất; Giáo dục chính trị, Kỹ năng giao tiếp; Ngoại ngữ, Tin học ứng dụng; Pháp luật; Thuế; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Thực hành nghề nghiệp... .
Kết quả bảng 3 cũng là tiền đề cho các cơ sở đào tạo có thể tham khảo khi sửa đổi, bổ sung hay xây dựng CTĐT mới phù hợp với nhu cầu xã hội cần, vì thực tế hay mục tiêu hiện nay cho thấy các cơ sở đào tạo không thể “đào tạo theo cái mình đã có mà phải đào tạo theo cái xã hội cần”.
       4. Đề xuất giải pháp nâng cao sự gắn kết của doanh nghiệp vào quá trình đào tạo và đánh giá người học tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau
       Để đào tạo lao động không thể chỉ trông cậy vào nỗ lực của các cơ sở giáo dục đào tạo mà rất cần sự vào cuộc tham gia của các doanh nghiệp. Thậm chí có thể coi là một mắt xích quan trọng. Việc doanh nghiệp hợp tác với cơ sở giáo dục giúp mở ra cơ hội cho học viên nghề có cơ hội được tiếp cận công nghệ với chính những kiến thức được học. Thậm chí tổ chức đào tạo khi xác định được nơi làm việc và mức thu nhập sau đó cho lao động. Trên thực tế sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp đã có, đã ký kết nhiều văn bản hợp tác nhưng sự gắn kết còn lỏng lẻo, kết quả đạt được chưa cao. Do đó, trong thời gian tới đòi hỏi các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và nhà nước phải thực sự đồng hành với nhau, không ai đặt cao hơn ai, tiến tới xây dựng hệ sinh thái sáng tạo khởi nghiệp, cộng sinh với nhau, phát triển bền vững. Vì vậy, bài viết đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
       4.1. Giải pháp đối với các cơ sở đào tạo
       Để nhóm giải pháp này đạt được hiệu quả cao như mong đợi, đòi hỏi phải có sự nổ lực, hợp tác của các cơ sở đào tạo với các cấp lãnh đạo địa phương; hay nói cách khác là cần mọi sự cống hiến của toàn thể cá nhân liên quan trong từng cơ sở đào tạo. Cho nên, một số công việc đòi hỏi CBQL giáo dục, GV cần thực hiện một số vấn đề cấp bách trong thời gian tới như sau:
       Thứ nhất, tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ GV giảng dạy đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, nâng cao về trình độ và chất lượng chuyên môn lẫn kỹ năng giảng dạy; đáp ứng được yêu cầu vừa tăng được quy mô, vừa nâng cao được chất lượng hiệu quả đào tạo, coi phát triển đội ngũ GV là một trong những giải pháp trọng tâm quyết định đến sự phát triển và nâng cao chất lượng dạy nghề. Chính vì vậy, muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhà giáo, trong đó có đội ngũ GV trực tiếp giảng dạy, bằng các chính sách, cơ chế thu hút, tuyển dụng và cả đào tạo nâng cao theo lộ trình cụ thể và phù hợp. 

Khóa tập huấn Chương trình đào tạo theo năng lực thông qua học tập và ứng dụng do VSEP tổ chức tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau

       Thứ hai, đẩy mạnh thu hút hay hợp tác, huy động các chuyên gia, đào tạo bồi dưỡng kỹ sư, cử nhân, nghệ nhân, người có kỹ năng nghề cao đã làm việc tại các doanh nghiệp về kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm để trở thành nhà giáo, giáo dục nghề nghiệp. Ngoài ra, tăng cường các hình thức liên kết, trao đổi giảng viên giữa các trường danh tiếng nhằm nâng cao phương pháp sư phạm, kiến thức chuyên môn, kỹ năng giảng dạy của giảng viên. Đặc biệt hàng năm cần tăng cường hợp tác với doanh nghiệp bằng cách ký kết hợp đồng “đặt hàng” cho giảng viên tham gia giảng dạy tại các doanh nghiệp trong các chuyên đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, cập nhật kiến thức, huấn luyện đào tạo kinh doanh,… cho nhân viên của doanh nghiệp.
       Thứ ba, xây dựng mô hình Trung tâm hỗ trợ SV khởi nghiệp hoặc Quỹ hỗ trợ  SV khởi nghiệp. Công việc này cần có sự tham gia của Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp thanh niên. SV là đối tượng đang dồi dào về ý tưởng và có tiềm năng lớn, được trang bị về kiến thức, tri thức. Tuy nhiên, khởi nghiệp là một quá trình khó khăn và có rất nhiều trở ngại, chính vì thế SV cần phải có những nền tảng kiến thức tốt và ham học hỏi; sự kiên trì, chăm chỉ; ý chí khát vọng; có kế hoạch khởi nghiệp; không sợ thất bại. Ngoài ra, còn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ doanh nghiệp; sự quan tâm của các cấp lãnh đạo. Đối với vấn đề này, ngay cả Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ khẳng định “Hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia muốn bền vững phải tính đến nền tảng là thế hệ trẻ, những người đang bắt đầu từ hệ sinh thái khởi nghiệp trong nhà trường. Đặc biệt vai trò của doanh nghiệp trong việc kích hoạt sự sáng tạo của người học; khi doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo, người học sẽ đến gần hơn với thị trường lao động, được học cách khởi nghiệp và được hun đúc tinh thần khởi nghiệp. Chủ trương của Bộ GD và ĐT sẽ tiếp tục triển khai nhiều hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp, đồng thời huy động nhiều hơn nữa trí tuệ, công sức của của các lực lượng xã hội đóng góp cho hoạt động này”. Điều này cho thấy, chương trình khởi nghiệp được đánh giá là rất quan trọng cho SV hiện nay. 
       Thứ tư, hàng năm các cơ sở đào tạo cần tổ chức cuộc thi “SV với ý tưởng khởi nghiệp” cho SV tham gia. Cuộc thi sẽ chào đón tất cả các SV tỉnh Cà Mau coi đây là cơ hội để SV thể hiện ý tưởng của mình theo các lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; giáo dục và đào tạo; y tế; dịch vụ, du lịch; khoa học, công nghệ; tài chính; và các ngành nghề khác. Thương mại hóa các ý tưởng, phát minh sáng chế công nghệ của SV cho doanh nghiệp, từ đó nâng cao uy tín của cơ sở đào tạo và SV và sự gắn kết ngày càng chặt chẽ với doanh nghiệp.
       Thứ năm, hoạt động biên soạn, sửa đổi chương trình đào đạo, chương trình môn học cần thiết phải có sự tham gia của doanh nghiệp vì chỉ có doanh nghiệp mới hiểu rõ mình cần những kiến thức, kỹ năng gì ở nhân viên mình để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả. Cho nên, các cơ sở đào tạo cần quan tâm vấn đề này trong hoạt động biên soạn, sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo, chương trình môn học thì không thể thiếu bộ phận doanh nghiệp tham gia vào hoạt động chiến lược mục tiêu này. 
       4.2. Giải pháp đối với các nhà doanh nghiệp
       Để nhóm giải pháp này đạt được hiệu quả về mọi mặt, các cơ quan/doanh nghiệp cần thực hiện:
       Một là, tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc; thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ; thực hiện dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao, công bằng trong việc chọn lựa, thu dụng, giao việc cho người tài.
       Hai là, tạo điều kiện cho người lao động được tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực tại doanh nghiệp; có chính sách liên kết đào tạo thích hợp nhằm tạo môi trường thực tập cho SV khi còn học ở nhà trường.
       Ba là, tạo mọi điều kiện để nhà trường kết nối, hợp tác nhằm giúp sinh viên tiếp cận với các môi trường làm việc thực tế. Trong đào tạo, nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, sẽ góp phần giảm tải được áp lực về chất lượng nguồn nhân lực, cũng là động lực để nhà trường nâng cao hơn nữa kỹ năng lao động cho SV, góp phần đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của doanh nghiệp. Việc hợp tác, liên kết với các cơ sở đào tạo là cách hữu hiệu để tuyển dụng được nguồn lao động tốt đáp ứng yêu cầu sử dụng và cũng là thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, góp phần tích cực trong công tác giải quyết việc làm cho SV trên địa bàn tỉnh Cà Mau. 
       Bốn là, tăng cường tham gia, kết nối với Trung tâm Dịch vụ việc làm và các cơ sở đào tạo để thu hút lao động nhằm tuyển chọn lao động đáp ứng được nhu cầu của đơn vị. Tham gia vào quá trình biên soạn, sửa đổi chương trình đào tạo, chương trình môn học tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo có thể nắm bắt sát hơn những yêu cầu và nhu cầu tìm việc trên thị trường để có các giải pháp tích cực nhằm kịp thời điều chỉnh, nâng cao chất lượng nguồn lao động, nắm bắt nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh góp phần giải quyết việc làm cho HS, SV sau khi tốt nghiệp.
       Năm là, tăng cường tài trợ cho các hoạt động của SV nhằm quảng bá thương hiệu, nâng cao, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng và xã hội. Từ đó có thể thu hút được nhân tài đến với doanh nghiệp mình và nhận được lòng trung thành của nhân viên hơn. 
       4.3. Cơ chế chính sách của địa phương trong việc hỗ trợ, định hướng gắn kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo
       Nhằm gắn kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo ngày càng chặt chẽ. Chính quyền địa phương cần quan tâm:
       - Quy hoạch ổn định các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn 2030; phù hợp yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Hình thành hệ thống đào tạo nghề theo 3 cấp bậc trình độ đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng); Chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ sở đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân lực. Cung cấp thông tin về thị trường lao động; Xây dựng dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương theo từng giai đoạn...
       - Hỗ trợ ngành giáo dục đào tạo để có chính sách hiệu quả trong công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông vào học tại các trường trung cấp, trường cao đẳng.
       - Hỗ trợ chương trình “Thanh niên khởi nghiệp”, SV cần được sự quan tâm hỗ trợ, định hướng từ nhiều phía, nhiều ngành liên quan, sự hỗ trợ về vốn, khoa học kỹ thuật, đầu ra sản phẩm…
       - Đầu tư đồng bộ cho đào tạo nhân lực thuộc các ngành, nghề trọng điểm của tỉnh Cà Mau, được tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực, để có thể kết nối cung - cầu lao động phù hợp với tình hình thực tế của thị trường lao động hiện nay.
       - Các ngành cần có chính sách, hỗ trợ các bên hợp tác với nhau như: quy định trong chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, xếp hạng doanh nghiệp… đối với các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nhân lực.
       5. Kết luận
       Việc phối hợp giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong đào tạo và đánh giá sử dụng không còn là vấn đề mới trong đào tạo nguồn nhân lực nói chung. Tuy vậy, do nhiều lý do khác nhau nên vẫn cần có những điều chỉnh và nghiên cứu triển khai nhất định tại các cơ sở đào tạo có sự gắn kết với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Có thể khẳng định rằng mối gắn kết bền vững giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo của các cơ sở đào tạo, đồng thời là nguồn nhân lực chất lượng đầu vào của doanh nghiệp.

ThS. Nguyễn Chánh Nhân 
Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau

Tài liệu tham khảo
[1] Hoàng Phương Bắc (2018), “Một số giải pháp tăng cường đào tạo gắn với doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo tại Trường Đại học Thái Bình”, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 06/2018, tr 100-103. 
[2] Nguyễn Quang Thuần và cộng sự (2019), “Giải pháp việc làm cho học sinh, sinh viên tỉnh Cà Mau sau khi tốt nghiệp”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh.
[3] Phạm Văn Quân (2019), “Xây dựng mô hình liên kết nhà trường - doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo”, Chuyên trang Giáo dục nghề nghiệp.
[4] Phạm Thị Thu Phương (2016), “Các phương thức hợp tác giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong đào tạo sinh viên ngành du lịch đáp ứng nhu cầu hội nhập”, Scienge & Technology Development, Vol19, No.X5-2016.
[5] https://gdnn.edu.vn/giao-duc-nghe-nghiep/xay-dung-mo-hinh-lien-ket-nha-truong-doanh-nghiep-trong-dao-tao-va-nghien-cuu-khoa-hoc-tai-cac-co-so-dao-tao-199.html
[6] https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/tang-cuong-ung-dung cntt/Pages/Default.aspx?ItemID=5920
[7] https://thanhnien.vn/giao-duc/462-doanh-nghiep-khong-he-hop-tac-voi-cac-co-so-giao-duc-nghe-nghiep-1113901.html
[8] http://bantuyengiao.cantho.gov.vn/category/van-kien-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang/459.htm
[9] https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/giao-duc-nghe-nghiep-doi-moi-de-thich-ung-807241