Thực trạng của các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất tại tỉnh Cà Mau

       1. ĐẶT VẤN ĐỀ

       Theo số liệu của Cục Thống kê năm 2020, toàn tỉnh hiện có trên 690.000 lao động từ 15 tuổi trở lên. Trong đó, lao động nông thôn chiếm 79,42%. Lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật, chưa qua đào tạo của chiếm hơn 90%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động thành thị 4,56%, nông thôn 1,44%; thiếu việc làm thành thị 0,62%, nông thôn 5,09%. Vì thế, có hơn 200.000 lao động phải đi làm ăn xa ngoài tỉnh. Nhận thấy được thời gian nhàn rỗi, thiếu việc làm, thất nghiệp của lao động nông thôn còn khá cao, vì vậy chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm mục đích tạo việc làm cho lao động nữ nông thôn như như về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, phiên chợ việc làm, ý tưởng khởi nghiệp, đề án chương trình “mỗi xã một sản phẩm” – OCOP. Chương trình OCOP Cà Mau là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương (xã, phường, thị trấn) theo chuỗi giá trị, do các tổ chức kinh tế tập thể hợp tác xã (HTX) và các thành phần kinh tế tư nhân (doanh nghiệp, hộ sản xuất) thực hiện nhằm góp phần tái cơ cấu kinh tế tỉnh Cà Mau theo hướng phát triển nội sinh, gia tăng giá trị và tham gia đồng bộ với chương trình OCOP quốc gia giai đoạn 2019 – 2020, kế hoạch 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030. Khi chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được thực hiện và phát triển sẽ tạo sức bật cho sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp ở nông thôn, nông dân dần thay đổi tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, hình thành các liên kết sản xuất.

       Song song đó, Hội LHPN tỉnh cũng đã phát động và thực hiện có hiệu quả nhiều mô hình phi nông nghiệp trong việc tuyển chọn ý tưởng khởi nghiệp cho các chị em phụ nữ như đan đát, chế biến thủy hải sản, thêu, kết cườm, may dân dụng, nữ công gia chánh. Tuy nhiên, phần lớn do ảnh hưởng phong tục, tập quán các chị em sản xuất, kinh doanh theo hình thức hộ gia đình nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, sản xuất theo kiểu truyền thống. Vì vậy, sự hợp tác, liên kết trong ngành càng cần thiết hơn bao giờ hết vì mục tiêu của liên kết trong ngành là phân bổ lợi ích và cả rủi ro giữa những người tham gia để các tác nhân tham gia cùng nhau phát triển. Bên cạnh đó, ngành nghề phi nông nghiệp là một trong những chiến lược tạo công ăn, việc làm cho bộ phận lao động nông thôn, tăng năng suất lao động, cải thiện được đời sống người lao động và đặc biệt là góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo của chính phủ đề ra. Nghiên cứu của Reardon (1997) về hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn ở vùng hạ sahara (Sub-Sahara) của Châu Phi cho rằng hoạt động phi nông nghiệp tương đối quan trọng ở nông thôn, nhiều trường hợp chiếm 30%-50% thu nhập. Tương tự, Ferreira và Lanjouw (2001) cho rằng ở Brazil đa dạng hóa thu nhập bằng việc tham gia các hoạt động phi nông nghiệp giúp tăng thu nhập cho những người nghèo là một trong những yếu tố giúp các hộ gia đình giảm thiểu rủi ro trong nông nghiệp. Do vậy, khuyến khích sự phát triển các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và hỗ trợ các hộ nghèo tham gia vào hoạt động kinh tế này được coi là những nhân tố cơ bản giúp người nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo đói và tăng chi tiêu hộ gia đình, giải quyết việc làm lao động nông thôn nhàn rỗi.

       Như chúng ta đã biết, thu nhập của nông hộ khi tham gia sản xuất phi nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng bới các yếu tố như sản lượng bán, chi phí đầu vào và giá đầu ra. Tuy nhiên, việc nghiên cứu kỹ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng và phân phối các yếu tố đầu vào như thế nào để giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất là nỗi quan tâm hàng đầu của các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp nhưng vẫn chưa được nghiên cứu và đề xuất những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sản xuất. Chính vì vậy, nghiên cứu “Thực trạng của các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất tại tỉnh Cà Mau” được thực hiện nhằm mục tiêu cải thiện, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố đầu vào góp phần nâng cao lợi nhuận cho nông hộ trong thời gian tới.

       2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

       Số liệu thứ cấp về thực trạng sản xuất của các mô hình phi nông nghiệp (mô hình làng nghề và mô hình sản xuất mới) được thu thập từ tài liệu có liên quan, các báo cáo hằng niên của Cục Thống kê, Niên giám thống kê, phòng Nông nghiệp phát triển nông thôn, các bài báo, tạp chí chuyên ngành.

       Số liệu sơ cấp được thu thập từ việc phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu bằng phương pháp phi ngẫu nhiên thuận tiện để phỏng vấn 1.050 (30 mô hình x 35 hộ) hộ dân tham gia sản xuất từ các mô hình phi nông nghiệp tương ứng với 30 mô hình phi nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau là các mô hình làng nghề truyền thống và mô hình sản xuất mới, bao gồm các mô hình như nghề làm chả cá phi, nghề may, nghề làm mắm cá đồng, nghề ép chuối khô, nghề gác kèo ong, nghề muối ba khía, nghề ráp lú, nghề làm muối biển, nghề làm khô bổi, nghề nấu rượu, nghề làm dưa bồn bồn, nghề thủ công mỹ nghệ, nghề làm chổi, nghề làm mắm ruốc, nghề làm bánh phồng tôm, nghề làm cốm gạo, nghề đan đát (đan mê bồ), nghề dệt chiếu, nghề làm cá khô biển, nghề làm lờ lưới, nghề làm tôm khô, nghề làm mắm tôm, nghề làm khô mực, nghề làm đũa đước, nghề chế biến ba khía muối, nghề làm khô cá phi, nghề làm khô các khoai, nghề làm mắm mào gà, nghề làm khô cá thòi lòi và nghề hầm than đước.

       Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả kết hợp với phân tích biểu đồ, biểu bảng để phân tích thực trạng của các mô hình phi nông nghiệp ở tỉnh Cà Mau.

       3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

       3.1. Một số thông tin chung về hộ khảo sát

       Số liệu sơ cấp của đề tài được thực hiện bằng phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên thuận tiện thông qua bảng câu hỏi được thiết kế sẵn, tổng phiếu khảo sát là 1.050 phiếu và tiến hành đưa vào nhập liệu để phân tích.

Bảng 1: thông tin cá nhân của hộ

Chỉ tiêu

Tần số (hộ)

Tỷ trọng (%)

 

  1. Giới tính

1.050

100

 

Nam

339

32

 

Nữ

711

68

 

2. Dân tộc

1.050

100

 

Kinh

1.023

97

 

Khác

27

3

 

3. Tuổi của hộ dân

1.050

100

 

20 tuổi đến 35 tuổi

153

15

 

36 tuổi đến 45 tuổi

394

38

 

46 tuổi đến 60 tuổi

404

39

 

Trên 60 tuổi

99

8

 

4. Trình độ học vấn

1.050

100

 

TH/THCS/THPT

914

87

Trung cấp/cao đẳng

93

9

Đại học

33

3

Sau đại học

4

1

5. Quy mô lao động

1.050

100

1 người

206

20

2 người

558

53

3 người

195

19

4 người

80

7

5 người

11

1

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       Qua kết quả điều tra xã hội học, bảng 3.1 thể hiện một số tiêu chí cụ thể như sau:

       - Cơ cấu mẫu theo giới tính: Phần lớn hộ tham gia khảo sát có số lượng giới tính nữ giới cao hơn nam giới trong tổng số phiếu điều tra, cụ thể là nam giới có 339 phiếu, chiếm tỷ lệ 32%; nữ giới 711 phiếu, chiếm tỷ lệ 68%. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế, vì phần lớn các mô hình sản xuất phi nông nghiệp mà nhóm nghiên cứu khảo sát phù hợp với nữ giới nhiều hơn nhằm mục đích là tận dụng thời gian nhàn rỗi, tạo việc làm cho chị em phụ nữ có thể điển hình như nghề dệt chiếu, nghề lắm mắm, nghề làm khô, nghề lằm chả cá phi,… chỉ có 1 số ít nghề cần nam giới là người sản xuất chính, chẳng hạn như nghề gác kèo ong, nghề sản xuất muối biển, nghề muối ba khía, nghề ráp lú…

       - Cơ cấu mẫu theo thành phần dân tộc: Trong tổng số phiếu điều tra, chiếm tỷ lệ cao nhất là dân tộc kinh, với 1.023 phiếu, chiếm tỷ lệ 97%; còn lại là dân tộc khác, chủ yếu ở đây là dân tộc Khmer với 27 phiếu tương ứng với tỷ lệ 3%.

       - Cơ cấu mẫu theo nhóm độ tuổi: Chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm độ tuổi từ 46 tuổi đến 60 tuổi với 404 phiếu tương ứng tỷ lệ 39%; kế đến là nhóm độ tuổi từ 36 tuổi đến 45 tuổi, với 394 phiếu ứng với tỷ lệ 37%; thứ ba là nhóm độ tuổi từ 20 tuổi đến 35 tuổi, chiếm 15% với 153 phiếu; cuối cùng là nhóm độ tuổi trên 60 tuổi với 99 phiếu với tỷ lệ là 9%. Qua bảng thống kê cho thấy, độ tuổi lao động tham gia sản xuất phi nông nghiệp hiện nay đều trong độ tuổi lao động, đây là một thế mạnh và cũng là một thách thức rất lớn đối với các cấp chính quyền địa phương trong việc triển khai, thực hiện các chính sách đào tạo nghề cũng như công tác tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

       - Cơ cấu mẫu theo trình độ học vấn: Trong tổng số hộ khảo sát, chiếm tỷ lệ cao nhất 87% hộ có trình độ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông ứng với 914 phiếu; kế đến là hộ có trình độ ở mức trung cấp hoặc cao đẳng với 93 phiếu với tỷ lệ là 9%; còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể là hộ có trình độ đại học và sau đại học lần lượt là 3% và 1%. Nhìn chung, trình độ học vấn của các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ rất thấp. Vì vậy, đây có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác đào tạo nghề, tuyên truyền các chính sách về lao động, việc làm cho người dân địa phương Từ đó, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả triển khai, thực hiện chính sách an sinh xã hội chung của tỉnh.

       - Cơ cấu mẫu theo lao động tham gia sản xuất: Số lao động gia đình tham gia vào hoạt động sản xuất phi nông nghiệp cao nhất là 02 người/hộ, chiếm tỷ lệ 53% ứng với 558 phiếu khảo sát; kế đến là 01 người/hộ, chiếm tỷ lệ 20% ứng với 206 phiếu khảo sát; tiếp đến có 03 người/hộ, chiếm tỷ lệ 19% ứng với 195 phiếu khảo sát; hộ có 04 người/hộ, và 05 người/hộ chiếm tỷ lệ không đáng kể, lần lượt là 7% và 1%. Điều này cũng phù hợp với thực tế vì các hộ gia đình chủ yếu kinh doanh nhỏ, lẻ. Phần lớn là họ tận dụng thời gian nhàn rỗi kiếm thêm thu nhập, hoặc chủ yếu kinh doanh theo dạng lấy công làm lời nên lao động gia đình tham gia chỉ từ 1-2 người/hộ. Có những hộ là các cơ sở kinh doanh lớn hoặc tham gia hợp tác xã, tổ hợp tác thì lúc đó họ cần nhiều lao động hơn nên lúc đó họ sẽ thuê lao động phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng.

       - Cơ cấu mẫu theo số lao động thuê: Có 684 hộ không thuê lao động chiếm tỷ lệ cao nhất 65% ứng với 684 người; kế đến có 127 hộ thuê với số lao động 02 người có tỷ lệ là 12%; đứng thứ ba là 118 hộ thuê 01 lao động, chiếm tỷ lệ 11%; còn lại là hộ thuê 03 lao động; 04 lao động và từ 05 lao động trở lên có tỷ lệ lần lượt là 4%; 2% và 6%. (Hình 1).

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Cơ cấu mẫu theo hình thức thuê lao động: Hình 2 cho thấy, số lao động thuê theo tháng chiếm tỷ lệ cao nhất với 193 hộ thuê, ứng với tỷ lệ là 18%; kế đến có 163 hộ thuê lao động thuê theo ứng với tỷ lệ 16%; cả hai hình thức thuê lao động theo tuần và thuê lâu dài chiếm tỷ lệ không đáng kể, chỉ có 1%. Số tiền trả lao động thuê sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của hộ, do đó việc thuê lao động lâu dài và thuê theo tháng sẽ là tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của hộ. Vì vậy, các hộ gia đình nên cân nhắc trong việc thuê lao động, chỉ nên thuê lao động theo ngày hoặc theo tuần nhằm giảm chi phí thuê mướn, gia tăng lợi nhuận.

           Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Cơ cấu mẫu theo tỷ lệ có việc làm: Hình 3 cho thấy, có 687 hộ được phỏng vấn là có việc làm thường xuyên, tương ứng tỷ lệ 65%; còn lại 35% là hộ không có việc làm thường xuyên, ứng với 363 hộ. Tỷ lệ nông hộ không có việc làm thường xuyên cũng còn khá cao, đây cũng là một trong những vấn đề cần sự quan tâm hàng đầu của các ngành chức năng, chẳng hạn như đào tạo nghề cần chú trọng khảo sát, xác định đúng nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; quan tâm cấp phép mở rộng ngành nghề đào tạo, gắn với nhu cầu tuyển dụng để người lao động có cơ hội lựa chọn nghề phù hợp, dễ tìm việc làm nhằm giúp nhiều lao động nông thôn có việc làm thường xuyên hơn, nâng cao thu nhập cải thiện cuộc sống, nhất là thời điểm nông nhàn.

                         

 Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Cơ cấu mẫu theo tình trạng kinh tế gia đình: Kết quả hình 4 thể hiện tỷ lệ hộ có sổ hộ nghèo rất thấp, chỉ có 43 họ, chiếm tỷ lệ 4%; còn lại 1.007 hộ không có sổ hộ nghèo với tỷ lệ 96%. Tỷ lệ hộ có sổ hộ nghèo rất thấp trong tổng số phiếu khảo sát, đây là một tín hiệu đáng mừng. Có thể nói: nhờ tạo ra nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, các ngành nghề phi nông nghiệp có thể được coi là động lực theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo và tăng thêm phúc lợi cho người dân. Tuy thu nhập của nông hộ đã được cải thiện song vẫn còn nhiều khó khăn và cần nhiều sự quan tâm, định hướng về việc làm, nghề nghiệp cho hộ trong thời gian tới của các ngành chức năng.

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Lý do khi quyết định tham gia sản xuất phi nông nghiệp: Hình 5 cho biết lý do hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp là muốn tăng thêm thu nhập chiếm tỷ lệ cao nhất (46%); lý do thứ hai được chọn do có điều kiện tham gia dễ dàng, chiếm 12%; kế đến là điều kiện việc làm phù hợp và gần nhà đều chiếm tỷ lệ 9%; lý do tiếp theo để hộ quyết định tham gia hoạt động sản xuất phi nông nghiệp là  có thời gian linh hoạt là 7%; còn lại 17% là bao gồm các lý do như theo xu hướng lao động, trình độ tay nghề thấp, được trả tiền công nhanh chóng, có thêm kinh nghiệm và tìm kiếm công việc phù hợp hơn. Thật vậy, hầu hết các vùng nông thôn, nhất là các vùng thuần nông đều thiếu việc làm cho người lao động trong những hoàn cảnh như vậy thì việc tổ chức các hoạt động sản xuất được nhiều nghề phi nông nghiệp và làng nghề trong khu vực nông thôn nhằm tạo ra nhiều việc làm tại chỗ và tăng thu nhập là một trong những giải pháp quan trọng và khả thi nhất hiện nay.

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Những thuận lợi khi tham gia sản xuất mô hình phi nông nghiệp: Hình 6 cho thấy, thuận lợi đầu tiên khi hộ tham gia sản xuất các mô hình phi nông nghiệp là có thêm thu nhập chiếm tỷ lệ cao nhất (34%); thuận lợi tiếp theo là công việc làm không ràng buộc thời gian, chiếm 15%; kế đến là sản phẩm bán dễ dàng chiếm 14%; thuận lợi nữa là dễ làm không đòi hỏi tay nghề cao, có tỷ lệ 12%; chiếm tỷ lệ 8% là đi làm gần, thuận tiện trong việc chăm sóc, lo lắng cho gia đình; còn lại 17% là các thuận lợi khác như có được mối quan hệ xã hội rộng hơn, có thêm kinh nghiệm trong việc làm, có được sự hỗ trợ về vốn của nhà nước và công việc thì tương đối ổn định hơn. Việc tham gia sản xuất các mô hình phi nông nghiệp, mô hình làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động nông nhàn; cải thiện và nâng cao đời sống nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo; Đồng thời, tận dụng được nguồn nguyên liệu tại chỗ của địa phương như cói, lát, lục bình, cây bồn bồ, tôm tép, cá các loại,… tạo ra hàng hoá có giá trị kinh tế cao, đây là điều kiện thuận lợi để các mô hình phi nông nghiệp phát triển hơn nữa.        

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Sự hỗ trợ vay vốn của nhà nước: Ngoài những thuận lợi tiên quyết khi hộ tham gia hoạt động sản xuất phi nông nghiệp được nêu trên, thì hộ còn nhận được sự quan tâm từ các ngành chức năng cụ thể là được vay vốn khi tham gia sản xuất hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, cụ thể là được vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội, chiếm tỷ lệ cao nhất là 42%; kế đến là được vay từ hội phụ nữ, chiếm 28%; cuối cùng tỷ lệ 30% là được hỗ trợ vay vốn từ các nguồn khác như từ các chính sách ưu đãi của chính quyền, địa phương hay từ Đoàn thanh niên hoặc từ Hội nông dân, Hội Cựu chính binh (hình 7).

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       - Sự khó khăn khi tham gia sản xuất mô hình phi nông nghiệp: Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, khi hộ tham gia sản xuất mô hình phi nông nghiệp còn gặp những khó khăn nhất định, tuy đã được chính quyền nhà nước quan tâm, hỗ trợ về vốn nhưng phần lớn còn rất nhiều hộ thiếu vốn, đây là khó khăn chiếm tỷ lệ cao nhất, 27% (hình 8); chênh lệch không nhiều là khó khăn về việc làm không ổn định và tại địa phương chưa đa dạng được ngành nghề lần lượt có tỷ lệ là 18% và 17%; kế đến 13% cho rằng thu nhập thấp; và khó khăn hộ tiếp theo là không có tay nghề chuyên môn, chiếm tỷ lệ 8%. Còn lại 17% là những khó khăn khác mà các hộ gặp phải như công việc không phù hợp, tuổi không phù hợp với việc làm, sợ bị rủi ro khi đổi nghề và đi làm xa nhà.

       3.2. Thực trạng về liên kết sản xuất

       Chương trình OCOP là một chương trình mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt là yêu cầu khơi dậy tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế nông thôn. Do đó giai đoạn đầu triển khai, một số địa phương còn nhiều lúng túng trong quá trình thực hiện, đặc biệt là xác định lợi thế, tiềm năng sản phẩm và chủ thể sản xuất. Vì vậy, trong tổng 1.050 phiếu khảo sát thì chỉ có 170 hộ, ứng với 16% là mô hình sản xuất có sản phẩm thuộc chương trình OCOP; 84% thì sản phẩm của hộ không phải sản phẩm thuộc chương trình OCOP (xem hình 9).

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       Hiện nay, liên kết trong sản xuất có vai trò rất quan trọng trong việc tiêu thụ đầu ra cho sản phẩm, giúp nâng cao lợi ích của các bên tham gia chuỗi giá trị, đặc biệt là đối với nông hộ. Từ đó, góp phần tăng quy mô sản xuất hàng hóa, áp dụng các quy trình sản xuất hiện đại; nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất theo hợp đồng nhằm tránh tình trạng “được mùa, mất giá”. Tuy nhiên, thực tế khi khảo sát thì vấn đề liên kết trong sản xuất chưa đạt kết quả cao, chiếm tỷ lệ thấp, chỉ có 26% hộ có tham gia liên kết trong sản xuất, còn lại hộ không tham gia liên kết trong sản xuất lại chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều, có tới 74% tương ứng 779 hộ (xem hình 10).      

                    Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

          Hình 11 cho thấy, khi tham gia liên kết theo chuỗi sản xuất, nông hộ chọn tham gia liên kết tham gia vào các hội phụ nữ chiếm tỷ lệ cao nhất 51%; kế đến 24% hộ chọn liên kết sản xuất bằng cách tham gia vào hợp tác xã, tổ hợp tác; 7% hộ chọn liên kết sản xuất bằng cách tham gia vào Hội nông dân; còn lại 18% hộ chọn tham gia vào các liên kết khác như liên kết với ngân hàng hay tổ chức tín dụng, liên kết với công ty, doanh nghiệp.

                   

Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       Hình 12 thể hiện những lợi ích khi tham gia liên kết theo chuỗi sản xuất, trong đó lợi ích chiếm tỷ lệ cao nhất là nông hộ được sản xuất theo nhu cầu thị trường (28%); kế đến là lợi ích được nâng cao lợi nhuận trong sản xuất; được hỗ trợ từ doanh nghiệp nhằm giảm chi phí lần lượt có tỷ lệ 14% và 13%; lợi ích tiếp theo có tỷ lệ 10% là khi hộ tham gia liên kết theo chuỗi sản xuất sẽ được cung cấp thêm nhiều thông tin về thị trường và khách hàng để gia tăng đầu ra cho sản phẩm; tỷ lệ 35% hộ sẽ có nhiều lợi ích khác nếu tham gia liên kết theo chuỗi sản xuất như được vay vốn sản xuất, được chia sẻ kinh nghiệm sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng uy tín với khách hàng, chất lượng sản phẩm đồng nhất và có thể cung ứng một lượng lớn sản phẩm khi khách hàng có yêu cầu.

         

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       Bên cạnh những thuận lợi đạt được khi tham gia liên kết theo chuỗi sản xuất thì nông hộ còn gặp phải những khó khăn như hình 13, chiếm tỷ lệ cao nhất 36% là hộ sản xuất không theo nhu cầu của thị trường và khách hàng mà chỉ sản xuất theo sản phẩm mình có. Từ đó dẫn đến lợi nhuận không được nâng cao như mong đợi (12%); khó khăn tiếp theo đến với hộ là phần lớn hộ chưa được hỗ trợ về vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh (10%) nhằm giảm chi phí đầu vào; vì quy mô liên kết sản xuất theo chuỗi của các hộ thường nhỏ, lẻ, phân tán, không tập trung, sản phẩm không thường xuyên nên đa số hộ gặp khó khăn về quy mô sản phẩm không đủ lớn để cung ứng thị trường, chiếm tỷ lệ 9%; với tỷ lệ 33% là hộ tham gia hoạt động sản xuất các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết gặp những khó khăn khác, có thể kể đến như không được cung cấp nhiều thông tin về thị trường, khách hàng; không được vay vốn để sản xuất; chất lượng sản phẩm chưa được đồng nhất, khả năng quản lý, khả năng phân tích về thị trường chưa được nâng cao.

       Tóm lại, việc tổ chức liên kết sản xuất các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi trên địa bàn tỉnh đã hình thành và phát triển; khi tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất, người dân được tiêu thụ sản phẩm với giá cả ổn định, được doanh nghiệp đầu tư giống, vật tư nhằm giảm chi phí đầu vào,... Mô hình liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp; hợp tác xã và người nông dân đang phát huy hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, các chuỗi liên kết sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế như tỷ lệ các hộ tham gia liên kết sản xuất thấp so với mặt bằng sản xuất chung. Mối liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và nhà phân phối trong sản xuất vẫn còn lỏng lẻo; sản phẩm chưa tiêu thụ được nhiều. Vì vậy, trong quá trình thực hiện liên kết sản xuất theo chuỗi vẫn còn nhiều khó khăn cần tháo gỡ để phát triển bền vững, cần sự quân tâm, chỉ đạo sâu sát về phương hướng, hỗ trợ về chính sách cho người dân.

       3.3. Hiệu quả của các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất

       Qua phân tích một số chỉ tiêu tài chính, kết quả bảng 2 thể hiện nông hộ tham gia sản xuất các mô hình phi nông nghiệp của tỉnh Cà Mau đạt hiệu quả về tài chính trong năm 2021. Tổng doanh thu trung bình tính cho toàn thể 30 mô hình phi nông nghiệp đã nêu đạt khoảng 20.300 triệu đồng/năm; Tổng chi phí trung bình tính cho toàn thể 30 mô hình phi nông nghiệp đã nêu đạt khoảng 13.900 triệu đồng/năm; Lợi nhuận được tính bằng tổng doanh thu trừ đi cho tổng chi phí; và lợi nhuận trung bình của các mô hình phi nông nghiệp trong năm 2021 đạt 63,218 triệu đồng/năm.

Bảng 2: Một số chỉ tiêu tài chính

Các chỉ tiêu

Đơn vị tính

Thấp nhất

Cao nhất

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Tổng doanh thu

Triệu đồng/năm

0,6

30.000

20.300

1,423

Tổng chi phí

Triệu đồng/năm

0,2

20.000

13.900

1,023

Lợi nhuận

Triệu đồng/năm

0,24

10.000

63,218

401

Các chỉ tiêu tài chính

   

 

Tổng doanh thu/ Tổng chi phí­

Lần

1,05

40,26

2,42

0,19

Lợi nhuận/ Tổng chi phí

Lần

0,051

39,264

1,42

3,29

Lợi nhuận/ Tổng doanh thu

Lần

0,049

0,975

0,42

3,29

                   Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, 2021

       Doanh thu/tổng chi phí: Tỷ số này phản ánh cứ mỗi một đồng chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh thì nông hộ thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 thì người sản xuất bị lỗ, nếu tỷ số này bằng 1 thì người sản xuất hòa vốn, còn nếu tỷ số này lớn hơn 1 thì người sản xuất có lời. Nghiên cứu cho thấy, hộ dân đầu tư 01 đồng vào các mô hình sản xuất phi nông nghiệp thì sẽ mang lại trung bình là 2,42 đồng doanh thu.

       Lợi nhuận/tổng chi phí: Tỷ số này cho biết trong một đồng doanh thu thu được từ sản xuất kinh doanh thì có bao nhiêu đồng lợi cho hộ dân tham gia hoạt động sản xuất các mô hình phi nông nghiệp. Từ những tính toán trên cho thấy, hộ dân đầu tư một đồng chi phí cho quá trình sản xuất thì sẽ thu được trung bình là 1,42 đồng lợi nhuận.

       Lợi nhuận/doanh thu (tỷ suất lợi nhuận): Tỷ số này cho biết cứ mỗi đồng chi phí bỏ ra đầu tư sản xuất kinh doanh thu thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo nghiên cứu, các hộ dân tham gia hoạt động sản xuất các mô hình phi nông nghiệp thì trung bình 01 đồng doanh thu thu được từ bán hàng hóa thì hộ dân thu được trung bình là 0,42 đồng lợi nhuận.

       Tóm lại, qua phân tích một số chỉ tiêu tài chính trong hoạt động tham gia sản xuất các mô hình phi nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau, kết quả nhận thấy rõ hơn về khả năng sinh lời của đồng vốn khi hộ đầu tư vào hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Kết quả cho thấy tỷ suất lợi nhuận trung bình đạt 0,42 lần. Nghĩa là nếu bỏ ra 1 đồng chi phí trong sản xuất thì trung bình thu về 0,42 đồng lợi nhuận (số liệu tính cho cả 30 mô hình). Song song với việc đạt được lợi nhuận cao trong việc tham gia sản xuất phi nông nghiệp ; nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều rủi ro xảy ra đối với nông hộ trong quá trình sản xuất kinh doanh, bởi các sản phẩm phi nông nghiệp cũng có thể bị ảnh hưởng rất nhiều yếu tố như nguồn nguyên liệu khan hiếm khi có dịch bệnh hoặc bị ảnh hưởng bởi “được mùa, mất giá”.

       4. KẾT LUẬN

       Thực trạng các mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất tại tỉnh Cà Mau; kết quả nghiên cứu được dựa trên số liệu thu thập từ 30 mô hình sản xuất phi nông nghiệp với số phiếu khảo sát là 1.050. Để phân tích thực trạng sản xuất, nghiên cứu thực hiện bằng phương pháp thống kê mô tả. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tiến hành phân tích một số chỉ tiêu tài chính trong hoạt động tham gia sản xuất mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết. Kết quả phân tích cho thấy phần lớn các nông hộ đạt hiệu quả về phương diện tài chính trong hoạt động tham gia sản xuất phi nông nghiệp. Lợi nhuận bình quân trong tham gia sản xuất phi nông nghiệp có thể đạt được 63,218 triệu đồng/năm; tỷ suất lợi nhuận đạt 0,42 lần; ngoài ra còn có tỷ số lợi nhuận/tổng chi phí trung bình đạt 1,42 lần; tỷ số tổng doanh thu/tổng chi phí đạt cao nhất (2,42 lần). Tuy nhiên, trong thực tế nông hộ khi tham gia sản xuất mô hình phi nông nghiệp theo chuỗi liên kết cũng còn gặp nhiều khó khăn nhất định như giá bán thấp, thiếu thông tin về thị trường, khách hàng, thiếu vốn sản xuất, khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Vì vậy, các ngành chức năng cần can thiệp chính sách tạo điều kiện thuận lợi để nông hộ tiếp cận công nghệ mới, cải thiện tốt kiến thức; cần có những chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước nhằm phát triển các sản phẩm làng nghề hay các sản phẩm phi nông nghiệp thuộc chương trình OCOP, chế biến và mở rộng thêm nhiều thị trường đầu ra cho sản phẩm ở cả thị trường trong và ngoài nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh trong sản xuất./.

Ths. Lê Khánh Linh - Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau

CN. Nguyễn Thị Ngọc Thúy - Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Cà Mau